Thay đổi chính sách giảm nghèo theo hướng bền vững hơn
Đói nghèo ở Việt Nam tiếp tục giảm, đặc biệt là trong các dân tộc thiểu số với tỷ lệ giảm mạnh tới 13%, mức giảm lớn nhất trong thập niên vừa qua, theo một báo cáo mới công bố của Ngân hàng Thế giới (NHTG).
Từ thực tế chất lượng cuộc sống của con người liên quan đến nhiều khía cạnh khác ngoài thu nhập, năm 2014, Quốc hội đã quyết định việc giao Chính phủ xây dựng chuẩn nghèo mới theo phương pháp tiếp cận đa chiều nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản để thực hiện từ năm 2016.
Năm 2015, Chính phủ Việt Nam đã ban hành chuẩn nghèo đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020, đánh dấu bước quan trọng trong quá trình chuyển đổi của Việt Nam từ đo lường nghèo theo thu nhập sang đo lường đa chiều. Theo đó, xác định chuẩn nghèo mới thay thế cho chuẩn nghèo cũ với các tiêu chí thoát nghèo cao hơn. Chuẩn nghèo xác định theo 10 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản gồm: Y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin.
Những chỉ tiêu này xác định mục tiêu giảm nghèo một cách bền vững bởi nguy cơ đói nghèo, tái đói nghèo đều có thể xảy ra trong những biến cố của môi trường thiên nhiên, của quá trình hội nhập và phát triển. Việt Nam đã trở thành một trong số những nước đi đầu ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong áp dụng phương pháp đo lường nghèo đa chiều để giảm nghèo ở tất cả các chiều cạnh. Trong Kế hoạch phát triển Kinh tế Xã hội (2016 - 2020), Việt Nam đã đặt mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo đa chiều bình quân cả nước là 1 - 1,5%/năm và riêng các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn giảm 4%/năm.
Việc sử dụng chuẩn nghèo quốc gia không những là cần thiết cho việc xây dựng các chính sách, chương trình giảm nghèo và cho công tác giám sát nghèo ở Việt Nam mà còn giúp Việt Nam theo dõi tiến độ trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc (SDG).
Đảng, Quốc hội và Nhà nước quyết định thay đổi chính sách giảm nghèo theo hướng bền vững hơn. Việc hoạch định các chính sách về xóa đói, giảm nghèo cũng đã có những thay đổi rất căn bản để phù hợp với những yêu cầu mới.
Để nâng cao hiệu quả của chính sách, Quốc hội và Chính phủ đã gộp tất cả các chương trình xóa đói, giảm nghèo lại thành một chương trình là “Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020”. Trong đó bao gồm 5 dự án thành phần là: Chương trình 30a (giảm nghèo nhanh và bền vững cho các huyện nghèo); Chương trình 135 (Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi); Hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo trên địa bàn các xã ngoài Chương trình 30a và Chương trình 135; Truyền thông và giảm nghèo về thông tin; Nâng cao năng lực và giám sát, đánh giá thực hiện chương trình.
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2016 - 2020 diễn ra trong bối cảnh mới gắn liền với việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011 - 2020) và kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế-xã hội (2016 - 2020), đây là giai đoạn cuối nhằm thực hiện hoàn thành chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm.
Chương trình được thực hiện trên phạm vi cả nước nhưng nguồn lực của Chương trình ưu tiên đầu tư cho các địa bàn nghèo và khó khăn để giảm sự cách biệt giữa các vùng miền. Tổng kinh phí thực hiện Chương trình trong giai đoạn 2016 - 2020 là 48.397 tỷ đồng, trong đó 95,7% huy động từ ngân sách Nhà nước.
Cả nước hiện có 64 huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo; 310 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo; 2.331 xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi, xã biên giới, xã an toàn khu và 3.509 thôn, bản đặc biệt khó khăn được đầu tư, hỗ trợ theo các cơ chế, chính sách của Chương trình 135 theo Quyết định số 551/QĐ-TTg ngày 4/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ.
Theo báo cáo “Bước tiến mới: Giảm nghèo và thịnh vượng chung tại Việt Nam” của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, thu nhập từ hoạt động nông nghiệp tại vùng cao có thể giúp Việt Nam tiếp tục giảm nghèo, đã giảm khoảng 4% từ năm 2014 xuống còn 9,8% vào năm 2016.
Các dân tộc thiểu số - đa số ở vùng cao - chiếm 72% người nghèo ở Việt Nam, và chính sách khuyến khích trồng cây công nghiệp có giá trị cao có thể nâng cao thu nhập cho các dân tộc này.
"Việt Nam đã đạt được những kết quả to lớn trong việc giảm nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống cho hàng triệu người. Tỷ lệ nghèo trong các dân tộc thiểu số tiếp tục giảm là kết quả rất đáng khích lệ, và những nỗ lực tập trung vào việc tăng cường thu nhập cho các dân tộc thiểu số có thể gia tăng cơ hội cho những nhóm người này và giảm sự bất bình đẳng kéo dài", Ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, cho biết: "Không thể bỏ qua khát vọng của những người có ít cơ hội."
Báo cáo tóm tắt các xu hướng và mô hình đói nghèo trong thời gian gần đây ở Việt Nam, và nêu ra những giải pháp để thúc đẩy tiềm năng chưa được khai thác trong lĩnh vực nông nghiệp ở vùng cao, nơi tập trung nhiều người nghèo. Ví dụ như các quyết định về sử dụng đất và loại cây trồng có tác động mạnh đến chênh lệch thu nhập trong nông nghiệp giữa các hộ gia đình. Các gia đình có thu nhập thấp ở vùng cao thường sử dụng đất để trồng những loại cây cơ bản như lúa hoặc ngô, thay vì trồng cây có giá trị cao như cà phê, hồ tiêu hay cao su.
Tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng có thể giúp nông dân vùng cao thực hiện những khoản đầu tư cần thiết vào sản xuất nông nghiệp để đem lại thu nhập cao. Nâng cao khả năng tạo thu nhập có thể giúp thu hẹp bất bình đẳng giữa các nhóm dân tộc. Ví dụ, mức tiêu dùng bình quân đầu người của người dân tộc thiểu số chỉ còn thấp hơn người Kinh và người Hoa khoảng 45%. Hơn nữa, người nghèo đang phải đối mặt với khoảng cách ngày càng lớn về khả năng tiếp cận giáo dục trung học phổ thông, cải thiện nước sạch và vệ sinh môi trường.
Đồng thời, báo cáo cũng ghi nhận hiện nay 70% người dân Việt Nam đã được đảm bảo về mặt kinh tế, trong đó có 13% thuộc tầng lớp trung lưu theo chuẩn thế giới. Các tầng lớp thu nhập này đang phát triển nhanh chóng, tăng hơn 20% trong giai đoạn 2010 - 2017. Tính từ năm 2014, trung bình mỗi năm có 1,5 triệu người Việt Nam gia nhập vào tầng lớp trung lưu toàn cầu, cho thấy các hộ gia đình đang tiếp tục leo lên bậc thang kinh tế cao hơn sau khi thoát nghèo.
Sự gia tăng của lớp người tiêu dùng làm thay đổi nguyện vọng của xã hội, trọng tâm của chương trình xoá đói nghèo và chia sẻ thịnh vượng chuyển từ chống nghèo cùng cực sang cải thiện mạnh mẽ chất lượng cuộc sống và hỗ trợ sự gia tăng của tầng lớp trung lưu. Khả năng tạo công ăn việc làm nhanh chóng và quá trình chuyển đổi sang việc làm có lương đang thúc đẩy kết quả tích cực của hoạt động giảm nghèo và chia sẻ thịnh vượng.
Bước sang giai đoạn 2022-2025, Việt Nam áp dụng chuẩn nghèo đa chiều mới theo quy định tại Nghị định 07/2021/NĐ-CP của Chính phủ. Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 15/3/2021.
Một hành trình mới đã bắt đầu. Với những thành tựu và quyết tâm rất cao của cả hệ thống chính trị, Việt Nam sẽ sớm đạt được các mục tiêu đã đề ra, người nghèo sẽ không chỉ nghèo tiền mà còn được cải thiện tích cực về 8 khía cạnh cơ bản của cuộc sống như: Dinh dưỡng, y tế, nhà ở, môi trường, tiếp cận thông tin, lao động trẻ em và đăng ký hành chính.
Hải Văn