Quảng Bình: Hơn 198 nghìn lượt hộ thoát nghèo từ vốn vay ưu đãi
20 năm qua, nguồn vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội đã cho vay hơn 603 nghìn lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác; hỗ trợ hơn 198,7 nghìn lượt hộ thoát nghèo.
Theo thống kê của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, từ 3 chương trình tín dụng nhận bàn giao ban đầu (hộ nghèo, giải quyết việc làm, học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn) với tổng dư nợ là 190.288 triệu đồng, trong 20 năm qua, Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam Chi nhánh Quảng Bình giải ngân 26 chương trình tín dụng chính sách với doanh số cho vay đạt 13.047.159 triệu đồng.
Tổng dư nợ đến 31/8/2022 đạt 4.233.174 triệu đồng với 22 chương trình tín dụng và 80.085 khách hàng đang còn dư nợ, tăng 4.042.886 triệu đồng và gấp 21,2 lần so với thời điểm nhận bàn giao.
20 năm qua, nguồn vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội đã cho vay với hơn 603 nghìn lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác; hỗ trợ hơn 198,7 nghìn lượt hộ thoát nghèo; thu hút và tạo việc làm cho gần 62 nghìn lượt lao động.
Đối với địa phương còn nhiều khó khăn như Quảng Bình, nguồn vốn tín dụng chính sách góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo và an sinh xã hội; giảm tỷ lệ hộ nghèo qua từng năm và trong từng giai đoạn, góp phần đưa tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh đến cuối năm 2021 còn 6,52%, tỷ lệ hộ cận nghèo là 5,38%.
Gia đình anh Hồ Sĩ, phường Quảng Phúc (Thị xã Ba Đồn) là một hộ nghèo Nhờ sự quan tâm của các tổ chức, địa phương, anh được vay số tiền 100 triệu đồng từ chương trình hỗ trợ tạo việc làm của Ngân hàng Chính sách xã hội. Sau khi nhận được số tiền vay, anh đã đầu tư xây dựng chuồng trại và mua 3 con bò. Từ 3 con bò, anh đã chăm sóc để nhân đàn và bán mỗi năm từ 1 - 2 con.
Nguồn thu nhập từ việc chăn nuôi bò giúp anh có đồng ra đồng vào để đầu tư mở rộng thêm mô hình chăn nuôi. Đặc biêt khi thấy đất vườn rộng, anh đã mạnh dạn đào ao để nuôi cá nước ngọt, trung bình mỗi năm cho thu hoạch từ 5 - 7 tấn cá.
Nhờ nguồn vốn vay giải quyết việc làm, anh Sĩ cũng đã biết đầu tư phát triển kinh tế. Từ một hộ có hoàn cảnh khó khăn, gia đình anh đã vươn lên khá giả với mức thu nhập trên 70 triệu đồng/năm.
Ông Nguyễn Trường Sơn, Giám đốc Sở Lao động, Thương binh và Xã hội cho biết, thực hiện chính sách về tín dụng đối với người nghèo, những năm qua, Sở đã hướng dẫn, chỉ đạo các địa phương tổ chức rà soát, xác định, lập danh sách hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo bảo đảm chính xác, dân chủ, công khai, có sự tham gia của người dân để làm cơ sở thực hiện các chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội. Sở cũng đã thường xuyên phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội, các tổ chức chính trị - xã hội trong quá trình thẩm định hồ sơ vay vốn, kiểm tra, giám sát hoạt động cho vay vốn.
Hàng năm, Sở phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội Chi nhánh Quảng Bình và các đơn vị có liên quan tham mưu UBND tỉnh giao kế hoạch cho vay giải quyết việc làm đối với các địa phương. Đồng thời thực hiện ưu tiên cho vay phù hợp với nhu cầu giải quyết việc làm, nhất là tại các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Thông qua chính sách tín dụng ưu đãi, đã có nhiều đối tượng lao động yếu thế, như: lao động là người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, lao động khu vực nông thôn... có cơ hội tiếp cận các nguồn vốn để mở rộng, phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần tạo và tự tạo việc làm cho bản thân, gia đình, cộng đồng.
Việc được sử dụng nguồn vốn vay từ chương trình cho vay hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo đã dần thay đổi tâm lý trông chờ, ỷ lại, giúp hộ nghèo chuyển từ sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hóa, vươn lên thoát nghèo, cải thiện đời sống.
Hàng nghìn hộ nghèo nhờ vốn vay ưu đãi đã biết tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tạo việc làm và tăng thu nhập cho nhiều lao động nông thôn, góp phần thoát nghèo bền vững.
Bên cạnh đó, chính sách tín dụng ưu đãi đối với học sinh, sinh viên có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm cơ hội học tập cho học sinh, sinh viên, giúp các em có hoàn cảnh khó khăn có điều kiện trang trải các chi phí, sinh hoạt, giúp hộ nghèo giảm bớt sức ép và nỗi lo về điều kiện tài chính chu cấp cho con em trong suốt quá trình học tập.
Đình Bổng, Thu Hà, Nguyễn Hà