Tuyên Quang: Giảm nghèo bền vững từ ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất
Khoa học và công nghệ là giải pháp tác động trực tiếp đến năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng hoá, nông sản, góp phần giảm nghèo ở Tuyên Quang.
Giảm nghèo bền vững là một nhiệm vụ trọng tâm được cả hệ thống chính trị tỉnh Tuyên Quang chú trọng thực hiện.
Trên địa bàn tỉnh, nhiều hợp tác xã nông nghiệp không ngừng tìm tòi, học hỏi, nỗ lực đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là ứng dụng công nghệ cao vào các quy trình sản xuất, kinh doanh. Từ đó mang lại hiệu quả kinh tế, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế tập thể, thúc đẩy nền sản xuất xanh, góp phần vào giảm nghèo.
Hiện toàn tỉnh Tuyên Quang có 533 hợp tác xã, tổ hợp tác. Trong đó có 433 hợp tác xã trong lĩnh vực nông lâm nghiệp, 43 tổ hợp tác đang hoạt động trong lĩnh vực nông lâm sản và thủy sản.
Thời gian qua, Sở Khoa học và Công nghệ đã phối hợp với ngành nông nghiệp, Liên minh Hợp tác xã tỉnh đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới vào hoạt động sản xuất của các hợp tác xã, tổ hợp tác. Hỗ trợ hợp tác xã, tổ hợp tác tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật công nghệ, đăng ký xác lập quyền sở hữu trí tuệ, phục vụ phát triển sản xuất, kinh doanh mang lại hiệu quả, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh.
Điển hình như trồng chè, theo phương pháp truyền thống, cây chè chỉ cho thu hoạch từ tháng 2 đến tháng 11 âm lịch. Từ năm 2017, Hợp tác xã Ngân Sơn đã ứng dụng công nghệ tưới phun mưa cho chè. Nước từ các van xoay phun mưa đều trên lá, trên luống chè như cơn mưa tự nhiên. Tưới phun mưa hiệu quả nhất đối với thời điểm ít mưa, chè trồng trên nương, đồi cao, giúp người trồng có thể chủ động về nước cũng như quá trình sinh trưởng của cây.
Nhờ được tưới phun mưa, diện tích chè cho năng suất tăng 35% năng suất; tiết kiệm 30% lượng nước tưới; giảm 30% chi phí chăm sóc, chủ động được thời gian bón phân, phun thuốc; chất lượng chè tốt và ổn định, cây chè cho thu hoạch quanh năm. Với vùng nguyên liệu chè rộng hơn 20 ha, bình quân mỗi năm, sản lượng chè búp tươi của hợp tác xã đạt hơn 50 tấn, doanh thu bình quân đạt 3 tỷ đồng/năm, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho các thành viên hợp tác xã.
Từ năm 2020 đến nay, Sở Khoa học và Công nghệ đã quản lý tổ chức thực hiện 11 đề tài, dự án có sự tham gia của các hợp tác xã, tổ hợp tác. Tiêu biểu như: Xây dựng mô hình chuỗi liên kết từ sản xuất nguyên liệu đến chế biến, tiêu thụ sản phẩm chè đạt tiêu chuẩn hữu cơ đối với một số giống chè mới, giống chè bản địa tại xã Hồng Thái (Na Hang); Ứng dụng khoa học công nghệ sản xuất, nâng cao năng suất chất lượng hồng ngâm Xuân Vân, na dai Lực Hành, huyện Yên Sơn, sản xuất giống lê nâu bản địa huyện Na Hang; Ứng dụng công nghệ tưới phun mưa cho chè trên địa bàn huyện Sơn Dương; Xây dựng và phát triển thương hiệu “Mật ong Sơn Phú”; Nghiên cứu giá trị dinh dưỡng, công thức phối trộn, chế biến sản phẩm bột rắc cơm từ các nguyên liệu sẵn có tại địa phương, tạo sinh kế cho người dân, phục vụ phát triển du lịch.
Khoa học và công nghệ được xem là giải pháp tác động trực tiếp đến năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa nông sản và dịch vụ trên thị trường. Nhiều kết quả nghiên cứu khoa học trong thời gian qua được chuyển giao, ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp như giống mới, quy trình công nghệ, tiến bộ kỹ thuật mới đã góp phần giảm chi phí đầu tư, tăng lợi nhuận và mang lại hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất nông nghiệp.