Đồng bào Mường ở Phú Thọ thoát nghèo nhờ trồng chè sạch
Nhờ ứng dụng công nghệ trồng chè sạch, nhiều hộ gia đình người dân tộc Mường ở xã Long Cốc, huyện Tân Sơn (Phú Thọ) đã thoát nghèo.
Long Cốc là một trong những xã miền núi thuộc diện xã 30a của huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ có trên 93,3% là người dân tộc Mường.
Bà Phạm Thị Hạnh, Giám đốc Hợp tác xã Sản xuất chè an toàn Long Cốc cho biết, nguồn thu nhập chính của người dân là các sản phẩm nông nghiệp, trong đó cây chè được xác định là cây chủ lực. Theo thống kê, toàn xã Long Cốc có 678 ha chè. Sản lượng chè búp hàng năm khoảng 10.000 tấn.
Trước đây, sản phẩm chè của các hộ gia đình chủ yếu là chè búp tuơi bán cho các thương lái. Người dân chưa có điều kiện để đầu tư vào chế biến chè, giá bán chè nguyên liệu thường bấp bênh, bị thương lái ép giá. Vì vậy thu nhập thấp, đời sống khó khăn, túng thiếu, tỷ lệ hộ nghèo cao.
Chính vì thế, nhu cầu cần có một tổ chức khâu kết nối người sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm kiếm thị trường tiêu thụ để tăng thu nhập cho người trồng chè, đồng thời góp phần vào công tác giảm nghèo của địa phương là rất cần thiết.
Bà Hạnh là một trong những hộ nghèo của địa phương. Quanh năm cả gia đình trông chờ vào việc thu hái chè thuê, trồng một sào chè để trang trải cho các nhu cầu tối thiểu của cuộc sống. Tuy nhiên, thu nhập rất bấp bênh, giá chè rẻ…
Sau khi được tham dự các chương trình tập huấn, quan sát cách sản xuất nông nghiệp sạch mang lại hiệu quả kinh tế cao, bà Hạnh ấp ủ việc thay đổi cách sản xuất nông nghiệp ở quê hương mình. Bà cũng chủ động tìm tòi thông tin qua báo chí, qua các phương tiện thông tin về các các mô hình làm ăn, các phương thức giúp người nghèo đổi đời…
Tiếp sức cho ý chí thoát nghèo của bà Hạnh, năm 2015, chính quyền xã Long Cốc và Dự án “Nâng cao năng lực và tiếp cận cộng đồng” của tổ chức phi chính phủ Quỹ Úc vì nhân dân châu Á - Thái Bình Dương đã hỗ trợ bà thành lập Tổ hợp tác sản xuất chè an toàn Long Cốc với 3 thành viên nòng cốt. Tổ hợp tác được dự án hỗ trợ một máy hút chân không để đóng gói sản phẩm, đồng thời cho vay 30 triệu đồng để mua sắm thiết bị chế biến.
Mục tiêu của mô hình là hướng người dân sản xuất và chế biến chè an toàn, chè sạch, tiến tới xây dựng thương hiệu chè hữu cơ của Long Cốc nhằm tăng thu nhập cho người trồng chè và có sản phẩm tốt cung cấp cho xã hội.
Ngay sau khi thành lập, Tổ hợp tác đã bắt tay xây dựng quy trình sản xuất chè an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP là không sử dụng phân hóa học, thuốc diệt cỏ, thuốc sâu hóa học. Trong chế biến không có chất thải ra môi trường (bao gồm chất thải rắn, chất lỏng và khí thải) góp phần gìn giữ môi trường và tạo thành ý thức cho người sản xuất trong bảo vệ môi trường. Chú trọng các nguyên tắc an toàn lao động và an toàn vệ sinh thực phẩm. Đồng thời hình thành mạng lưới liên kết với các hộ dân trên địa bàn phát triển các vùng chè an toàn theo hướng hàng hóa, xây dựng chuỗi giá trị, từng bước nâng cao chất lượng và phát triển thương hiệu: Chè an toàn Long Cốc.
“Trồng chè theo hướng hữu cơ chắc chắn vất vả, khó khăn hơn, sản lượng ít nhưng khi thu hoạch đạt được chất lượng chè ngon, an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng. Tôi nghĩ đây cũng là xu thế sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Người trồng và chăm sóc cũng không bị ảnh hưởng bởi hóa chất, vì nếu dùng các chế phẩm hóa học, người trồng sẽ bị ảnh hưởng đầu tiên do phải tiếp xúc chất độc hại hàng ngày”, bà Hạnh nói.
Năm 2018, Hợp tác xã Sản xuất chè an toàn Long Cốc được thành lập trên cơ sở chuyển đổi từ tổ hợp tác và kết nạp thêm 10 thành viên, nâng tổng số hội viên lên 13, liên kết với 20 hộ sản xuất chè nguyên liệu. Bà Hạnh cho đầu tư đồng bộ hệ thống nhà xưởng, trang thiết bị phục vụ quy trình sản xuất và chế biến chè, áp dụng khoa học kỹ thuật vào quy trình này để tạo ra sản phẩm chè sạch.
“Ban đầu tôi thành lập hợp tác xã chỉ có 1,2 hộ hưởng ứng bởi hay đổi nhận thức, tư duy sản xuất của người dân phải là một quá trình. Việc bỏ lối sản xuất cũ nhẹ nhàng hơn sang trồng kỹ thuật mới, nhiều công đoạn hơn, sản lượng lại thấp là điều không đơn giản. Tuy nhiên, khi chè tôi sản xuất theo công nghệ sạch bán được giá thành cao gấp 3 lần so với chè trồng kiểu cũ, nhiều người đã nhìn nhận ra vấn đề nên bắt đầu học hỏi, tìm hiểu và trồng theo”, bà Hạnh cho biết thêm.
Hiện hợp tác xã đang trở thành cầu nối liên kết, giải quyết khó khăn về giống, phân bón, khoa học - kỹ thuật, đầu ra sản phẩm và nâng cao thu nhập cho thành viên.
Ngoài việc xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng đạt tiêu chuẩn, chuyển giao các công nghệ mới, hợp tác xã còn hỗ trợ về phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, bao tiêu sản phẩm… Đặc biệt, để có được sản phẩm chè sạch, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường, hợp tác xã luôn tuân thủ nghiêm ngặt quy trình trồng, chăm sóc, chế biến theo tiêu chuẩn hữu cơ, VietGAP, an toàn sinh thái.
Trong quá trình chăm sóc, các thành viên, hộ trồng chè liên kết bán nguyên liệu cho hợp tác xã đều phải cam kết thực hiện tiêu chuẩn sản xuất sạch, như: Không dùng thuốc diệt cỏ, không dùng thuốc trừ sâu hóa học, không phun chất kích thích sinh trưởng… Các sản phẩm chè trước khi xuất bán đều được mang đi kiểm định chặt chẽ.
Đến nay, trên 95% diện tích chè xã Long Cốc được trồng và chăm sóc theo quy trình sản xuất VietGAP, an toàn sinh thái. Mỗi sản phẩm chè trước khi đưa ra thị trường đều được đóng gói theo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, có tem nhãn hàng và tem điện tử truy xuất nguồn gốc.
Năm 2019, Hợp tác xã Sản xuất chè an toàn Long Cốc được vinh danh đạt sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp tỉnh. Ngoài ra chè Long Cốc được Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tập thể.
Các sản phẩm của hợp tác xã có chất lượng, đảm bảo an toàn, được cấp chứng chỉ an toàn thực phẩm, chứng chỉ VietGAP, được cấp chứng nhận TCVN ISO 22000:2018 cho hệ thống quản lý an toàn thực phẩm lĩnh vực “ Sơ chế, chế biến và đóng gói các sản phẩm chè” và được sử dụng dấu chứng nhận FAO.
Bốn sản phẩm, gồm chè xanh Bát Tiên, chè Đinh Bát Tiên, chè Đinh Đặc Sản, chè Shan Tuyết đạt tiêu chuẩn OCOP hạng 4 sao các năm 2020, 2021 và 2022. Hàng năm, hợp tác xã cung cấp cho thị trường trên dưới 10 tấn chè các loại, có giá bán từ 200.000 đồng đến 2 triệu đồng/kg. Doanh thu mỗi năm đạt khoảng 5 tỷ đồng.
Song song với sản xuất, phát triển kinh tế, hợp tác xã còn góp phần giải quyết việc làm thường xuyên có 10 lao động, mức thu nhập bình quân mỗi lao động từ 6 - 7 triệu đồng/người/tháng. Tạo thu nhập cho các hộ liên kết (trên 20 hộ người dân tộc Mường), thông qua việc thu mua nguyên liệu (chè búp tươi) với giá cao gấp đôi thậm chí gấp ba so với giá thị trường, vì phải tuân thủ sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP và thu hái bằng tay. Gián tiếp tạo việc làm và thu nhập cho những người bán hàng, đại lý, quảng cáo, lưu thông, tiếp thị sản phẩm… Bản thân gia đình bà Hạnh vươn lên trở thành hộ khá giả, qua đó đóng góp vào công cuộc giảm nghèo bền vững của địa phương.