Quảng Ninh: Nâng cao đời sống, thay đổi diện mạo vùng sâu, vùng xa
Việc thúc đẩy phát triển KT-XH đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi ở Quảng Ninh góp phần nâng cao đời sống vất chất và tinh thần của bà con, thay đổi diện mạo vùng DTTS.
Triển khai đồng bộ các giải pháp
Những năm qua, tỉnh Quảng Ninh đã từng bước cụ thể hóa và vận dụng các chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, từ đó triển khai đồng bộ các giải pháp góp phần thúc đẩy phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS ngày một khởi sắc.
Trong đó, các cấp, ngành, địa phương trong tỉnh đã cụ thể hóa Nghị quyết 06-NQ/TU (ngày 17/5/2021) của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh và Chương trình tổng thể phát triển bền vững KT-XH, bảo đảm vững chắc QPAN ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo, gắn với xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu trên địa bàn tỉnh năm 2022.
Đồng thời, UBND tỉnh đã ban hành các quyết định, kế hoạch triển khai thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS, miền núi giai đoạn 2021-2025; thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2021-2025 đối với phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS, miền núi; xây dựng NTM; giảm nghèo bền vững. 13/13 huyện, thị xã, thành phố đã cụ thể hóa, xây dựng kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết 06-NQ/TU và Chương trình hành động số 4594/Ctr-UBND ngày 19/7/2021 về triển khai thực hiện Nghị quyết 06-NQ/TU, với mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ giải pháp cụ thể.
Sau hơn 1 năm triển khai thực hiện, tính đến hết năm 2021, thu nhập bình quân đầu người vùng DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo của tỉnh đạt 52,5 triệu đồng, tăng 13,88% so với năm 2020; tỷ lệ hộ nghèo trung bình giảm 3%. Không còn nhà ở tạm, nhà dột nát; giải quyết dứt điểm nhu cầu cấp thiết về nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho đồng bào DTTS nghèo, khó khăn. Phấn đấu đến hết năm 2022, tỉnh không còn địa bàn đặc biệt khó khăn theo tiêu chí mới.
Đến nay, 100% cơ sở giáo dục đảm bảo các điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị; 177/177 đơn vị cấp xã, 13/13 đơn vị cấp huyện đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; 1.005 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; trên 98% đồng bào DTTS có BHYT; tiếp tục kéo dài thời gian hỗ trợ BHYT cho 71.812 người dân sinh sống tại các xã mới ra khỏi diện đặc biệt khó khăn; 99% hộ dân được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 100% thôn, bản được phủ sóng điện thoại di động.
Đến hết năm 2021, toàn bộ 64 xã vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó, 32/64 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 9/64 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.
Huyện miền núi Tiên Yên là một trong những địa phương của tỉnh Quảng Ninh đã tập trung nhiều nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất nên cuộc sống của người dân nơi đây, nhất là vùng đồng bào DTTS đã và đang dần khởi sắc từng ngày.
Dân số đồng bào DTTS trong huyện chiếm trên 52%. Để nâng cao đời sống cho người dân, Tiên Yên đã cụ thể hoá và vận dụng tốt chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước áp dụng vào thực tiễn của địa phương thực hiện tốt Chương trình 135, Đề án 196, Chương trình xây dựng nông thôn mới… qua đó làm thay đổi diện mạo và đời sống của đồng bào DTTS trong huyện.
Thôn Cao Lâm xã Phong Dụ chủ yếu là đồng bào dân tộc Dao sinh sống. Bốn năm trước Cao Lâm là thôn đặc biệt khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao, giao thông đi lại gặp nhiều khó khăn, kinh tế chậm phát triển. Thế nhưng hiện nay, cuộc sống của bà con trong thôn đã khấm khá lên từng ngày, đường liên thôn được bê tông hoá góp phần thúc đẩy giao thương hàng hoá, phát triển kinh rế xã hội.

Đòn bẩy giúp nâng cao đời sống vùng đồng bào DTTS
Một trong những yếu tố góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội vùng DTTS và miền núi, nâng cao đời sống của đồng bào DTTS phải kể đến chính là nguồn vốn vay hỗ trợ tín dụng ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH).
Vốn cho vay đối với các hộ đồng bào DTTS những năm qua đã góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng đời sống, chuyển biến nhận thức, cách thức sản xuất kinh doanh cho hàng nghìn lượt hộ; giúp cho các hộ nghèo, đặc biệt là hộ nghèo vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, hộ đồng bào DTTS từng bước quen dần với cơ chế thị trường, mạnh dạn vay vốn để sản xuất, kinh doanh, từng bước vươn lên phát triển kinh tế gia đình, làm giàu chính đáng.
Nhờ đó, ngày càng có nhiều mô hình phát triển kinh tế, gương nông dân sản xuất giỏi là người DTTS.
Trong 20 năm qua, đã có trên 24.000 lượt khách hàng là hộ DTTS nghèo và hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn được thụ hưởng hầu hết các chương trình tín dụng tại NHCSXH, với tổng dư nợ đạt gần 1.500 tỷ đồng.
Nguồn vốn chính sách đang góp phần quan trọng đưa thu nhập bình quân đầu người vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo tăng tối thiểu 2 lần so với năm 2020, thu hẹp nhanh khoảng cách giàu nghèo, chênh lệch vùng miền trong tỉnh.
Hồng Khanh, Duy Tuấn, Thu Huyền