Nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp để giảm nghèo bền vững

Tỉnh Bắc Kạn đặt trọng tâm phát triển giáo dục nghề nghiệp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm… qua đó tăng thu nhập cho người lao động, góp phần giảm nghèo bền vững.

Trong 3 trụ cột giảm nghèo bền vững, giáo dục nghề nghiệp đóng vai trò quan trọng đối với hộ nghèo bởi có ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm, thu nhập và tình trạng kinh tế của hộ gia đình.

Thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh Bắc Kạn đặt trọng tâm phát triển giáo dục nghề nghiệp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm… Qua đó, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần giảm nghèo bền vững, đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh.

Theo số liệu của cơ quan chuyên môn, năm 2022, số lao động được giải quyết việc làm, tư vấn giới thiệu và đi làm việc ở nước ngoài của tỉnh vượt mục tiêu đề ra; tỷ lệ hộ nghèo giảm 2,55% (xuống còn 24,82%), đạt kế hoạch đề ra. 

Tại vùng dân tộc thiểu số, các đơn vị trong toàn tỉnh đã tổ chức đào tạo nghề, tổ chức nhiều hội nghị tư vấn, tuyên truyền, hướng nghiệp việc làm, các dịch vụ hỗ trợ việc làm và đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. 

Giáo dục nghề nghiệp có vai trò quan trọng trong công tác giảm nghèo của tỉnh Bắc Kạn.

Bắc Kạn hiện có 08 cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập gồm Trường Cao đẳng Bắc Kạn, 7 Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên cấp huyện. 

Bên cạnh những nỗ lực, công tác giáo dục nghề nghiệp của tỉnh vẫn còn nhiều vướng mắc. Đội ngũ giáo viên cơ hữu của các cơ sở dạy nghề còn thiếu. Bộ máy quản lý chưa đảm bảo, một số nhà giáo mới vào nghề còn thiếu kinh nghiệm chuyên môn, nghiệp vụ.

Năm 2020 - 2021, kết quả đào tạo nghề của tỉnh Bắc Kạn còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp. Các ngành nghề thuộc lĩnh vực du lịch, dịch vụ, công nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu nhân lực kỹ thuật chất lượng cao cho sản xuất - kinh doanh…

Để giải quyết những vấn đề này, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã xác định 7 nhiệm vụ, giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 4/5/2023 của Ban Bí thư Trung ương Đảng.

Mục tiêu của các nhóm nhiệm vụ, giải pháp là tiếp tục đổi mới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng đào tạo và hiệu quả của giáo dục nghề nghiệp. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với nhu cầu của thị trường lao động, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tạo bước đột phá về phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, có kỹ năng nghề đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh.

Phấn đấu đến năm 2025, thu hút 30 - 35% học sinh trung học vào hệ thống giáo dục nghề nghiệp. Đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho khoảng 25% lực lượng lao động. Có khoảng 6 đến 8 ngành, nghề trọng điểm, 50% chương trình đào tạo các ngành nghề trọng điểm đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng. Khoảng 60% ngành, nghề đào tạo được xây dựng, cập nhật chuẩn đầu ra theo Khung trình độ quốc gia.

Phấn đấu đến năm 2030, thu hút 40 - 45% học sinh trung học vào hệ thống giáo dục nghề nghiệp. Đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho khoảng 40% lực lượng lao động. Có ít nhất 50% cơ sở giáo dục nghề nghiệp và 70% chương trình đào tạo các ngành nghề trọng điểm đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng. Phấn đấu xây dựng Trường Cao đẳng Bắc Kạn trở thành trường chất lượng cao, bước đầu tiếp cận trình độ các nước ASEAN-4. Khoảng 10 ngành, nghề trọng điểm, trong đó 2 - 3 ngành, nghề có năng lực cạnh tranh trong nước về chất lượng đào tạo.

Phấn đấu đến năm 2045, giáo dục nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu nhân lực có kỹ năng nghề cao của thị trường lao động; có năng lực cạnh tranh vượt trội ở một số lĩnh vực, ngành nghề đào tạo. Trường Cao đẳng Bắc Kạn trở thành trường chất lượng cao, đào tạo đa ngành nghề, trong đó có các ngành nghề đạt trình độ các nước ASEAN-4 và một số nước phát triển.

Để đạt các mục tiêu trên, thời gian tới, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Kạn sẽ triển khai một số hoạt động. Cụ thể:

Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về giáo dục nghề nghiệp. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến bằng nhiều hình thức chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đổi mới, phát triển giáo dục nghề nghiệp, trọng tâm là Chỉ thị số 21-CT/TW. 

Rà soát, bổ sung chính sách liên quan đến công tác giáo dục nghề nghiệp. Trên cơ sở thực tiễn công tác quản lý, các cơ quan chức năng của tỉnh tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung các chính sách về giáo dục nghề nghiệp phù hợp với điều kiện của địa phương, bảo đảm gắn với thị trường lao động theo hướng mở, liên thông, hiện đại, hội nhập và thích ứng.

Đẩy nhanh lộ trình phổ cập nghề cho thanh niên, công nhân, nông dân và người lao động thông qua các hình thức hỗ trợ phù hợp. Tôn vinh người lao động có kỹ năng, tay nghề cao, nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp tiêu biểu có nhiều cống hiến cho sự nghiệp giáo dục nghề nghiệp. Ưu tiên đào tạo nghề cho thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an, thanh niên xung phong, người khuyết tật và các đối tượng yếu thế. Có chính sách khuyến khích học sinh khá, giỏi trung học cơ sở, trung học phổ thông vào hệ thống giáo dục nghề nghiệp.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác giáo dục nghề nghiệp. Tiếp tục rà soát, sắp xếp các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập trên địa bàn tỉnh theo hướng mở, linh hoạt và liên thông, với mục đích cung cấp cho người học những năng lực nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu, xu hướng phát triển của thị trường lao động. 

Phát triển giáo dục nghề nghiệp ở nông thôn, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; ưu tiên quỹ đất sạch dành cho giáo dục nghề nghiệp. Đẩy mạnh cải cách hành chính tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia công tác đào tạo nghề, kết nối thị trường lao động và giải quyết việc làm. Mở rộng và hoàn thiện chuyển đổi số, số hóa trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, dự báo, kết nối thị trường và quản lý lao động.

Tăng cường công tác hướng nghiệp trong giáo dục phổ thông, thực hiện tốt việc phân luồng, tăng tỷ lệ học sinh sau trung học vào giáo dục nghề nghiệp. 

Chuẩn hóa các điều kiện đảm bảo chất lượng trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp, đánh giá theo chuẩn kỹ năng nghề quốc gia. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp thực hiện tự đánh giá chất lượng giáo dục nghề nghiệp hằng năm theo quy định; bảo đảm chất lượng chuẩn đầu ra của từng ngành, nghề đào tạo theo tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia.

Nâng cấp và chuẩn hoá cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện đào tạo. Quan tâm đào tạo bồi dưỡng nhà giáo, người dạy nghề, chuyên gia cho các ngành, nghề trọng điểm. Nâng cao năng lực đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp theo hướng hiện đại, chất lượng cao, tiếp cận chuẩn của các nước tiên tiến. 

Gắn kết giáo dục nghề nghiệp với thị trường lao động và giải quyết việc làm. Nâng cao hiệu quả liên kết, hợp tác về giáo dục nghề nghiệp giữa Nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp. Khuyến khích doanh nghiệp tham gia giáo dục nghề nghiệp từ khâu tuyển sinh, đào tạo đến sử dụng, thành lập cơ sở thực hành tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

Ưu tiên ngân sách nhà nước, thúc đẩy xã hội hóa và huy động các nguồn lực cho giáo dục nghề nghiệp. Bảo đảm sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ Chương trình mục tiêu quốc gia, kinh phí hỗ trợ ngân sách của cấp trên về giáo dục nghề nghiệp. Chuyển nhanh cơ chế cấp ngân sách sang đặt hàng, giao nhiệm vụ để nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

Chủ động, tích cực hội nhập quốc gia và quốc tế về giáo dục nghề nghiệp; tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm, hợp tác đào tạo với các địa phương, cơ sở đào tạo nghề chất lượng cao trong nước và nước ngoài. Tranh thủ các nguồn lực để nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp, đưa hệ thống giáo dục nghề nghiệp tiếp cận với tri thức, kỹ năng, mô hình, quản lý giáo dục mới, nâng cao năng lực hệ thống giáo dục nghề nghiệp của tỉnh.

Duy Khánh và nhóm PV

Lan toả những lá đơn xin thoát nghèo của người Mã Liềng

Dù cuộc sống còn khó khăn nhưng với ý thức còn sức lao động vẫn đủ khả năng vươn lên, nhiều hộ dân ở huyện miền núi Tuyên Hóa (Quảng Bình) đã viết đơn xin thoát nghèo, dành sự hỗ trợ của Nhà nước cho những hộ có hoàn cảnh khó khăn hơn.

Nông dân Quảng Trị đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững

Những năm qua, Hội Nông dân tỉnh Quảng Trị phát động phong trào: “Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững” thu hút đông đảo các hội viên tham gia.

Chính quyền xã Cu Suê rút ngắn khoảng cách với người dân nhờ công nghệ

Dưới sự hỗ trợ của công nghệ, kết nỗi giữa chính quyền - người dân không chỉ rút ngắn được thời gian, không gian mà còn giảm bớt công sức, nhất là nhận thức, suy nghĩ của người dân cũng có nhiều thay đổi do được tiếp cận các thông tin, kiến thức.

Xã Đắk Tăng phủ sóng viễn thông đến 100% các hộ gia đình

Tại xã Đắk Tăng (huyện Kon Plông), chính quyền xã đã khảo sát, lắp đặt hạ tầng viễn thông, mạng wifi cho các thôn, làng trên địa bàn. Đến nay, các hộ gia đình đều có điện thoại thông minh kết nối 4G.

Lạc Dương đẩy mạnh hỗ trợ Smartphone cho đồng bào dân tộc thiểu số

Bên cạnh việc hướng dẫn người dân sử dụng internet, huyện Lạc Dương (Lâm Đồng) còn dành nguồn ngân sách lớn để hỗ trợ hàng trăm điện thoại thông minh, sim 4G cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số.

"Kéo" sóng viễn thông về nơi tận cùng khó khăn

Năm 2023, Xã Ea Yiêng đã hoàn thiện lắp đặt toàn bộ các trụ điện, đường dây điện đến các thôn, làng. Người dân đã có thể sử dụng các thiết bị điện phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày và xem tin tức, thời sự từ tivi.

Chị Lý Ân - Điển hình phụ nữ dân tộc thiểu số làm kinh tế giỏi

Chị Lý Ân là người dân tộc Dao tại xã Cư Suê, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk. Nhờ sự chăm chỉ, chịu khó, tìm tòi áp dụng công nghệ, trang trại của gia đình chị Lý Ân đã tràn ngập hoa trái, từ cà phê, sầu riêng, mãng cầu, cacao.

Kon Tum: Những già làng “giữ lửa” đại đoàn kết dân tộc

Tại tỉnh KonTum, già làng, trưởng bản được xem như “cánh tay nối dài” của chính quyền địa phương trong việc thực hiện chính sách dân tộc, chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng, Nhà nước.

Huyện Đắk Hà bảo tồn văn hoá phi vật thể gắn với phát triển du lịch cộng đồng

Với nét đặc thù riêng của một làng người dân tộc thiểu số Bahnar cùng với những giá trị đặc sắc về văn hóa truyền thống còn được bảo tồn, Kon Trang Long Loi, huyện Đắk Hà đang là điểm đến du lịch nổi bật của địa phương.

Đưa lúa nước lên bản giúp người Mày xoá đói, giảm nghèo

Khi đưa lúa nước lên bản, Bộ đội Biên phòng Quảng Bình đã giải quyết đúng gốc rễ cái đói mà đồng bào phải đối mặt. Những mùa vàng ở K. Ai đã góp phần giúp bà con xóa đói, giảm nghèo, ổn định cuộc sống.